Vương Trí Dũng
Phát triển các mối quan hệ không thù địch, đồng thời thân thiện với các quốc gia xung quanh, là một chính sách đúng đắn của mọi quốc gia ưa chuộng hòa bình và công lý. Chính sách láng giềng thân thiện nên được ưu tiên, khi láng giềng là một cường quốc. Vì lý do đó, năm 1990, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã hoàn thành kế hoạch bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau hơn một năm chiến tranh và các vấn đề biên giới.
Nhưng cách mà Việt Nam tiến hành chính sách ổn định quan hệ với Trung Quốc là không phổ biến. Không chỉ vậy, chất liệu ổn định quan hệ mà Việt Nam nỗ lực hết sức để hoàn thành, cụ thể hóa bằng Hiệp định Thành Đô (4-9-1990), lại là một điểm hạn chế đối với Việt Nam. Không những bất lợi mà còn tiến triển thê thảm. Mức độ của thảm họa tăng lên rất nhiều theo thời gian mà chính những người hòa giải của Hợp đồng Thành Đô cũng không thể lường trước được.
Hai mươi bốn năm đã trôi qua khi việc ký kết Hiệp định Thành Đô, hậu quả không thể lường trước của nó đối với Việt Nam, đến nỗi không ai còn sống sót, không dám để lộ ra ngoài mặt hay cố gắng viện dẫn các điều kiện. để bào chữa, nhưng trong sâu thẳm trái tim, họ đều thực sự cảm thấy hối hận.
3 LỖI
Sự hoảng sợ trong lịch sử
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã khiến một số nhà lãnh đạo Việt Nam lo lắng. Lo sợ thể chế sụp đổ, các nhà lãnh đạo Việt Nam trong thời gian đó bất ngờ trở thành kẻ thù không đội trời chung – đã đến Việt Nam năm 1979, cư ngụ thường xuyên ở biên giới Việt Nam trong suốt những năm 1980, và cũng được ghi trong Hiến pháp 1980 là kẻ thù – kết cục là “anh em ruột” ở cùng một phía của phe xã hội chủ nghĩa.
Đó là kết quả của Hợp đồng Thành Đô ký ngày 4 tháng 9 năm 1990 giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đại diện Việt Nam có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, với sự chứng kiến của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Về phía Trung Quốc có trợ lý tướng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc là điều nên làm. Vậy mà quá giật mình trước sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vàng cho phép một dàn xếp bất lợi cho Việt Nam để đảm bảo chế độ, bất lợi đến nỗi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thực sự lộ rõ vẻ lo lắng.
Ấn tượng của thiết lập
Sai lầm thứ hai là ấn tượng về chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và ở các nước Đông Âu hẳn là một vấn đề học thuật gay gắt để các nhà lãnh đạo Việt Nam phải đánh giá và cũng phải suy ngẫm. Rõ ràng là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do các đối thủ bên ngoài gây ra, mà là do nguyên nhân bên trong của sự lớn mạnh của phiên bản xã hội chủ nghĩa. Qua thực tế tồn tại, có thể hiểu đơn giản mô hình xã hội chủ nghĩa bao gồm những sai sót về mặt phương pháp mang tính nguyên tắc, điều này xác định sự sống còn của thiết kế. Để khắc phục những lỗi hệ thống này, phiên bản phải được thay đổi. Điều này khẳng định rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, mặc dù có kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống lại quân xâm lược quốc tế – mà thành công được hình thành từ tinh thần dân tộc nhiệt thành của nhân dân – đã không quan tâm nhiều đến yêu cầu này. nghiên cứu học thuật nghiên cứu.